Tắc mạch hóa chất là gì? Các công bố khoa học về Tắc mạch hóa chất

Tắc mạch hóa chất (còn được gọi là tắc mạch hóa học) là quá trình sử dụng các chất hóa học để làm tắc mạch hoặc phá vỡ tắc mạch trong hệ thống đường ống, ống dẫ...

Tắc mạch hóa chất (còn được gọi là tắc mạch hóa học) là quá trình sử dụng các chất hóa học để làm tắc mạch hoặc phá vỡ tắc mạch trong hệ thống đường ống, ống dẫn hoặc cống rãnh. Theo cách này, các chất hóa học được sử dụng để làm tan tích tụ chất bẩn gây tắc mạch, giúp làm thông thoáng hệ thống dẫn chất và khắc phục tình trạng tắc mạch. Tắc mạch hóa chất thường được sử dụng trong việc xử lý tắc mạch trong hệ thống thoát nước, công nghiệp hoặc gia đình.
Tắc mạch hóa chất là phương pháp sử dụng các chất hóa học để giải quyết tình trạng tắc mạch trong các hệ thống ống dẫn, cống rãnh và đường ống. Khi một hệ thống bị tắc mạch do tích tụ chất bẩn, vật liệu cặn bã hoặc chất béo, tắc mạch hóa chất có thể được áp dụng để làm tan, phân hủy hoặc lưu hóa tích tụ này, từ đó làm cho hệ thống thông thoáng trở lại.

Quá trình tắc mạch hóa chất thường bắt đầu bằng việc chẩn đoán nguyên nhân gây tắc mạch. Các chất hóa học phù hợp sau đó được chọn dựa trên kiểu tắc mạch và chất liệu trong đường ống. Các chất hóa học thông thường được sử dụng bao gồm axit sulfuric, axit hydrochloric, kali hydroxide, kali nitrat, kali permanganat, natri hydroxide, natri hydroxide, natri hypochlorit và nước giấm.

Sau khi chất hóa học đã được chọn, tiến trình tắc mạch bắt đầu bằng cách sử dụng một lượng phù hợp chất hóa học vào hệ thống tắc mạch. Chất hóa học này sau đó tác động lên tích tụ, làm tan hoặc phân hủy chúng, từ đó làm tắc mạch trong hệ thống.

Tắc mạch hóa chất có thể được áp dụng trong nhiều ngành công nghiệp, bao gồm cả ngành thực phẩm, y tế, mỹ phẩm, xây dựng, công nghiệp hóa chất và nhiều ngành khác. Ngoài việc làm thông thoáng các hệ thống ống dẫn và đường ống, tắc mạch hóa chất cũng giúp giảm thiểu sự hư hỏng và tiết kiệm chi phí bảo trì hệ thống.
Trong quá trình tắc mạch hóa chất, các chất hóa học được sử dụng để tác động lên các tích tụ, chất bẩn hoặc chất cặn gây tắc mạch và giúp phân hủy chúng. Có một số loại chất hóa học thông thường được sử dụng trong tắc mạch hóa chất, bao gồm:

1. Axit sulfuric: Axit sulfuric có tính axit mạnh và được sử dụng để làm tan tích tụ vô cơ như muối canxi hoặc muối sắt.

2. Axit hydrochloric: Axit hydrochloric cũng là một chất axit mạnh và có thể phân hủy các chất canxi, máu hay sắt, giúp làm tan tích tụ.

3. Kali hydroxide: Kali hydroxide có tính kiềm mạnh và được sử dụng để làm tan chất béo và xà phòng, giúp giải quyết vấn đề tắc mạch do cặn bã dầu mỡ.

4. Kali nitrat: Kali nitrat có khả năng cháy hoạt động và thường được sử dụng để làm tan các cặn bã hữu cơ.

5. Kali permanganat: Kali permanganat có khả năng oxi hóa mạnh và được sử dụng để phân hủy chất hữu cơ thông qua quá trình oxi hóa.

6. Natri hydroxide: Natri hydroxide tương tự như kali hydroxide, là kiềm mạnh và được sử dụng để làm tan chất béo và xà phòng.

7. Natri hypochlorit: Natri hypochlorit có khả năng tác động oxy hóa và làm tan các chất hữu cơ và chất hữu cơ gây mùi tanh.

8. Nước giấm: Nước giấm (axit axetic) có tính axit nhẹ và thường được sử dụng để làm tan tích tụ vô cơ như muối canxi hoặc muối sắt.

Quá trình tắc mạch hóa chất thường yêu cầu sự chăm chỉ và am hiểu về tính chất và tương tác giữa các chất hóa học. Việc sử dụng chất hóa học phù hợp và kiểm soát lượng chất hóa học được thêm vào là quan trọng để đảm bảo hiệu quả và an toàn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tắc mạch hóa chất":

GIÁ TRỊ CỦA CẮT LỚP VI TÍNH TƯỚI MÁU TRONG ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ NÚT ĐỘNG MẠCH GAN HÓA CHẤT Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán của cắt lớp vi tính tưới máu (CTP) trong đánh giá đáp ứng điều trị ung thư biểu mô tế bào gan sau nút động mạch gan hóa chất (TACE). Phương tiện và phương pháp: 15 bệnh nhân (12 nam, 3 nữ) với 20 khối ung thư biểu mô tế bào gan đã được điều trị bằng nút động mạch gan hóa chất (TACE), chụp cắt lớp vi tính (CLVT) thường quy và cắt lớp vi tính tưới máu trên máy CLVT 256 dãy kiểm tra sau điều trị và các khối u gan được kết luận còn tăng sinh mạch trên trên CLVT thường quy hoặc CTP sẽ được chụp động mạch số hóa xóa nền (DSA). Những khối u gan nghi ngờ có tăng sinh mạch trên bản đồ tưới máu  động mạch gan (HABF) và phần trăm tưới máu gan động mạch (HAF) trên CTP từ đó phân tích mối tương quan giữa đặc điểm hình ảnh trên HABF, HAF và DSA. Kết quả: Trong số 15 bệnh nhân với 20 khối u gan được điều trị bằng TACE, có 13 khối u gan còn tăng sinh mạch trên CTP (65%) có chỉ số tưới máu HABF và HAF cao hơn so với nhu mô gan xung quanh có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Giá trị các chỉ số tưới máu của khối u gan còn tăng sinh mạch: HABF= 180.40 ± 62.65, HAF = 54.20 ± 12.53. Giá trị chỉ số tưới máu của nhu mô gan xung quanh: HABF = 6.01 ± 7.64 và HAF = 6.32 ± 9.92. Khối u gan còn tăng sinh mạch có điểm cắt HABF = 93.42 có độ nhạy 91.7%, độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương tính 100%, giá trị tiên đoán âm tính 80% và điểm cắt HAF là 41.7 có độ nhạy 83.3%, độ đặc hiệu 87.5%, giá trị tiên đoán dương tính 100%, giá trị tiên đoán âm tính 66.67%. Kết luận: CLVT tưới máu có giá trị trong việc đánh giá đáp ứng điều trị khối u gan sau nút động mạch hóa chất với việc thể hiện khối u gan còn tăng sinh mạch.
#ung thư biểu mô tế bào gan #nút động mạch gan hóa chất (TACE) #HABF #HAF
Kết quả sống thêm lâu dài ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng tắc mạch hoá chất qua đường động mạch
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị tắc mạch hoá chất qua đường động mạch và các yếu tố tiên lượng ảnh hưởng đến sống còn ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 477 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng tắc mạch hoá chất qua đường động mạch. Thời gian sống thêm được tính bằng phương pháp Kaplan-Meier, đánh giá các yếu tố tiên lượng ảnh hưởng đến sống còn toàn bộ dựa vào kiểm định Log-rank và mô hình Cox. Kết quả: Tổng số có 477 bệnh nhân (437 nam, 40 nữ, tuổi trung bình 61,1 ± 11,7 năm), trung vị thời gian theo dõi 25,3 (1-63) tháng. Đáp ứng khối u theo mRECIST thời điểm 6 tháng gồm đáp ứng hoàn toàn 41 bệnh nhân (8,7%), đáp ứng một phần 352 (74,9%), bệnh ổn định/tiến triển 77 (16,1%). Trung vị sống thêm toàn bộ 53 ± 1,1 tháng. Các yếu tố ảnh hưởng đến sống thêm toàn bộ gồm ECOG ≤ 1, điểm Child-Pugh A, giai đoạn BCLC A/B, có đáp ứng điều trị khối u, điểm ALBI độ I. Trong phân tích đa biến, đáp ứng khối u và điểm Child-Pugh A là yếu tố có ý nghĩa tiên lượng sống thêm toàn bộ dài hơn. Kết luận: Tắc mạch hoá chất qua đường động mạch là phương pháp điều trị hiệu quả ở bệnh nhân ung thư gan. Chức năng gan Child-Pugh A và có đáp ứng khối u là yếu tố tiên lượng tốt đối với sống thêm toàn bộ.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #tắc mạch hoá chất qua đường động mạch #tiên lượng sống #đáp ứng khối u
Tác dụng không mong muốn và biến chứng của kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất
Mục tiêu: Đánh giá độ an toàn của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, có đối chứng trên 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân (Nhóm I) và 38 bệnh nhân điều trị bằng hóa tắc mạch hạt vi cầu DC Bead (Nhóm II). Đánh giá biến chứng sau SBRT theo CTCAE V5.0. Kết quả: Tác dụng phụ sớm ở bệnh nhân nhóm I chủ yếu là mệt mỏi (23,8%), nhóm II chủ yếu thấy đau vùng gan (47,4%), khác biệt có ý nghĩa, p<0,05. Biến chứng sớm ở nhóm I là viêm gan đợt cấp (4,8%), viêm da (4,8%) khác biệt không có ý nghĩa so với nhóm II (0%), p>0,05. Biến chứng lâu dài ở nhóm I: Viêm gan đợt cấp (2,4%), tràn dịch màng phổi (7,1%), viêm da (2,4%) không có sự khác biệt có ý nghĩa so với nhóm II: Viêm gan cấp (0%), tràn dịch màng phổi (2,6%), viêm da (0%), p>0,05. Không có tử vong liên quan đến kỹ thuật can thiệp ở cả 2 nhóm. Kết luận: SBRT là phương pháp điều trị an toàn, không có biến chứng nặng cho bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #biến chứng
Các yếu tố tiên lượng sống thêm lâu dài của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân phối hợp với hóa tắc mạch
Mục tiêu: Đánh giá các yếu tố tiên lượng sống thêm lâu dài của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBG) điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) phối hợp với hóa tắc mạch (TACE). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 42 bệnh nhân UTBG giai đoạn trung gian. Các bệnh nhân được điều trị bằng TACE và SBRT. Liều SBRT là 27,5-48Gy chia thành 3-5 phân liều. Đánh giá đáp ứng khối u theo tiêu chuẩn mRECIST. Phương pháp Kaplan-Meier sử dụng để đánh giá tỷ lệ sống sót. Các yếu tố tiên lượng được phân tích bằng phân tích đơn biến và đa biến. Kết quả: Trong 42 bệnh nhân (tỷ lệ nam 83,3%), tuổi trung bình 60,86 ± 13,25. Tỷ lệ sống sót sau 6, 12, 24 và 30 tháng là 95,2%, 84,1%, 74,1% và 68,8% và tỷ lệ sống còn toàn bộ trung bình là 27,6 tháng. Phân tích đơn biến cho thấy mức độ Alpha-fetoprotein, đáp ứng AFP và đáp ứng khối u là các yếu tố tiên lượng cho thời gian sống toàn bộ của bệnh nhân. Phân tích đa biến cho thấy điều trị trước đó, AFP trước điều trị, đáp ứng AFP và đáp ứng khối u là các yếu tố tiên lượng cho thời gian sống toàn bộ. Kết luận: Các yếu tố tiên lượng thời gian sống toàn bộ sau TACE và SBRT là AFP trước điều trị, đáp ứng AFP và đáp ứng khối u.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #yếu tố tiên lượng
Kết quả sống thêm lâu dài của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất được điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sống thêm lâu dài của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) so với tắc mạch hóa chất nhắc lại trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất (TACE). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, có đối chứng trên 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân và 38 bệnh nhân điều trị bằng hóa tắc mạch hạt vi cầu DC Bead. Đánh giá sống thêm bằng đường cong Kaplan Meier và test Log Rank. Kết quả: Thời gian theo dõi trung bình là 16,1 ± 7,5 tháng (4,0 - 34,2 tháng). Thời gian sống toàn bộ của bệnh nhân sau SBRT (27,67 ± 1,77 tháng) có sự khác biệt so với sau TACE (18,86 ± 1,52 tháng). Tỷ lệ sống toàn bộ tại các thời điểm 12, 24, 30 tháng sau SBRT lần lượt là 84,1%, 74,1%, 68,8% có sự khác biệt so với sau TACE lần lượt là 69,4%, 37,9%, 37,9%. Giai đoạn Kinki B2, nhóm kích thước u gan ≥ 5cm là các yếu tố dự báo sống thêm toàn bộ sau SBRT dài hơn có ý nghĩa so với sau TACE. Kết luận: SBRT là phương pháp có kết quả sống thêm lâu dài cao hơn so với điều trị bằng TACE nhắc lại cho bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau hóa tắc mạch.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #thời gian sống toàn bộ
Kết quả sớm của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân so với tắc mạch hóa chất nhắc lại trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, có đối chứng trên 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBG) điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) và 38 bệnh nhân điều trị bằng hóa tắc mạch hạt vi cầu DC Bead. Đánh giá đáp ứng lâm sàng, xét nghiệm, AFP, đáp ứng khối u (theo mRECIST) tại thời điểm 3, 6 tháng sau điều trị. Kết quả: Đáp ứng lâm sàng ở nhóm I (61,9%) có sự khác biệt so với nhóm II (23,7%), p<0,05. Đáp ứng AFP ở nhóm I (56,5%) có xu hướng cao hơn so với nhóm II (42,9%), p>0,05. Đáp ứng khối u thời điểm 6 tháng ở nhóm I (đáp ứng hoàn toàn 51,4%, đáp ứng một phần 8,1%) có sự khác biệt so với nhóm II (21,9% và 3,1%), p<0,05. Kết luận: Xạ trị lập thể định vị thân cho tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và đáp ứng khối u có sự khác biệt so với tắc mạch nhắc lại điều trị cho các bệnh nhân còn tồn dư sau TACE.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #đáp ứng u gan
Ứng dụng tắc mạch hóa chất trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tại Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị  bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, thời gian từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 8 năm 2020. Đối tượng và phương pháp: Gồm 58 bệnh nhân  chẩn đoán xác định ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp tắc mạch hóa chất tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên từ Tháng 08/2016 đến tháng 08/2020.  Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân 56,4 ± 11,9 tuổi. Vị trí u gan chủ yếu ở gan phải, chiếm 82,8%. Kích thước khối u trung bình trong nghiên cứu này là 7,5 ± 3,2cm. Nhóm bệnh nhân có u kích thước từ 5 - 10cm chiếm 44,8%. Sau 1 tháng, có 26,3% số bệnh nhân còn đau HSP so với 58,6% trước tắc mạch. Kích thước trung bình của khối u trước tắc mạch là 71,2 ± 27,5mm, sau tắc mạch 1 tháng, kích thước trung bình của khối u là 67,9  ± 25,9mm. Thời gian sống thêm trung bình là 20,8 ± 1,9 tháng (95% CI: 17,2  - 24,5). Tỷ lệ sống thêm toàn bộ sau 6 tháng là 91,2%, sau 12 tháng là 76,3% và sau 24 tháng là 30,5%. Bệnh nhân có khối u kích thước < 5cm có thời gian sống thêm trung bình là 26,1 ± 3,2 tháng, trong khi nhóm bệnh nhân có khối u > 10cm có thời gian sống thêm trung bình ngắn, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Thời gian sống thêm toàn bộ trung của nhóm bệnh nhân tắc mạch từ 2 lần trở lên là 31,3 ± 4,1 tháng, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân chỉ tắc mạch 1 lần (16,9 ± 1,5 tháng) (p=0,002). Kết luận: Tắc mạch gan bằng hóa chất là một phương pháp điều trị ung thư gan có hiệu quả. Kết quả điều trị tốt hơn ở nhóm bệnh nhân có kích thước khối u nhỏ hơn 5cm. Việc tắc mạch bổ sung cũng mang lại hiệu quả điều trị cao hơn cho nhưng bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #tắc mạch hóa chất #sống thêm toàn bộ #đặc điểm lâm sàng
21. Giá trị tiên lượng thời gian sống thêm của thang điểm abcr ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng phương pháp nút mạch hóa chất tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 181 Số 8 - Trang 187-194 - 2024
Khoảng 60% ung thư biểu mô tế bào gan phát hiện ở giai đoạn trung gian theo Barcelona, với liệu pháp điều trị chủ yếu là nút mạch hoá chất qua đường động mạch (TACE). Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân đạt hiệu quả như nhau khi điều trị TACE. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: Đánh giá về giá trị của thang điểm ABCR trong tiên lượng thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trung gian được điều trị bằng nút mạch hóa chất. Nghiên cứu 85 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trung gian điều trị bằng phương pháp TACE tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 6/2021 đến tháng 1/2024. Tuổi trung bình là 59,7 ± 10,9 tuổi. Nam giới chiếm 85,9%. 72,9% bệnh nhân mắc viêm gan B. Thời gian sống thêm trung bình sau TACE là 33,5 tháng. Giá trị dự đoán tiên lượng tử vong của thang điểm ABCR có diện tích dưới đường cong là 0,67. Nhóm phân loại ABCR nguy cơ thấp có thời gian sống thêm trung bình là 36,6 tháng với 95% CI là 33,6 - 39,6 cao hơn nhóm phân loại ABCR nguy cơ trung bình và ACBR nguy cơ cao (33,4 tháng và 14,7 tháng) với p = 0,07.
#Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) #nút mạch hoá chất qua đường động mạch (TACE) #Thang điểm ABCR #Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Đánh giá kết quả bước đầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hoá chất sử dụng hạt vi cầu DC-Beads tại Bệnh viện Quân y 105
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads tại Bệnh viện Quân y 105. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, can thiệp không đối chứng, theo dõi dọc 30 bệnh chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan có chỉ định tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads (Bicompatibles UK Ltd- Boston Scientific) hàm lượng doxorubicin 75mg/lần can thiệp tại Bệnh viện Quân y 105. Đánh giá đáp ứng khối u tại thời điểm 1 - 3 tháng và 4 - 6 tháng. Kết quả: 30 bệnh nhân nghiên cứu với độ tuổi > 60 tuổi (80%) tỉ lệ nam giới (93,33%); có yếu tố nguy cơ cao là nhiễm viêm gan virus B (83,33%). Thực hiện tổng cộng 62 lần can thiệp cho 30 BN, trung bình 2,07 lần cho một BN. Hội chứng sau tắc mạch (PES) thường gặp nhưng đa số đều nhẹ. Có 1 bệnh nhân biến chứng suy gan cấp (3,33%). Tỷ lệ giảm AFP sau 3 tháng chiếm 60%. Kích thước u trung bình tại các thời điểm 1 - 3 tháng và 4 - 6 tháng giảm có ý nghĩa so với trước điều trị. Các kết quả về tái phát, di căn và tử vong trong 6 tháng chiếm tỷ lệ 30%, 10%, 3,33%. Có 01 bệnh nhân tử vong trong 6 tháng vì nguyên nhân chảy máu tiêu hoá. Kết luận: Phương pháp tắc mạch hoá chất tải hạt vi cầu DC-Bead tại Bệnh viện Quân y 105 an toàn và hiệu quả cao cần tiếp tục thực hiện và nghiên cứu xa để đánh giá hiệu quả lâu dài.
#Tắc mạch hoá chất sử dụng hạt vi cầu #ung thư biểu mô tế bào gan
GIẢI PHẪU HỆ THỐNG ĐỘNG MẠCH GAN TRÊN HÌNH ẢNH CHỤP MẠCH SỐ HÓA XÓA NỀN ỨNG DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN BẰNG NÚT HÓA CHẤT ĐỘNG MẠCH QUA CATHTER
TÓM TẮTUng thư biểu mô tế bào gan (HCC) là loại ung thư hay gặp nhất trong các khối u ác tính của gan. Đây một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người trưởng thành, xếp thứ 5 ở nam giới và xếp thứ 8 ở nữ giới trong số các ung thư nguyên phát. Tỉ lệ mắc HCC cao nhất được thấy ở châu Phi khu vực cận Sahara, Đông Á, Đông Nam Á. Tính chung trên toàn thế giới, tại các nước đang phát triển, tỉ lệ mắc trong 100.000 dân đối với nam giới là 17,43 và đối với nữ giới là 6,77. Tại các nước phát triển, tỉ lệ này tương ứng là 8,71 và 2,86 [2],[6]. Mặc dù đã có nhiều phương pháp điều trị HCC đã được biết đến trong y văn thế giới nhưng hiện nay nút hóa chất động mạch qua catheter (TACE) vẫn là phương pháp hiệu quả nhất đối với HCC giai đoạn tiến triển (không thể phẫu thuật). Ngay cảvới những trường hợp còn chỉ định phẫu thuật thì TACE vẫn đóng vai trò quan trọng trong khi chờ được phẫu thuật. Hiệu quả của TACE phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếp cận các nguồn ĐM cấp máu cho khối u cũng như tránh được các ĐM mạch cấp máu cho tổ chức, cơ quan bình thường. Do vậy, việc nhận định được các hình thái giải phẫu, biến thể giải phẫu cũng như đặc điểm huyết động học của hệ thống ĐM gan trên chụp mạch số hóa xóa nền (DSA)là điều rất quan trọng trong nâng cao hiệu quả điều trị, tránh được những biến chứng của TACE.
Tổng số: 10   
  • 1