Scholar Hub/Chủ đề/#tắc mạch hóa chất/
Tắc mạch hóa chất (còn được gọi là tắc mạch hóa học) là quá trình sử dụng các chất hóa học để làm tắc mạch hoặc phá vỡ tắc mạch trong hệ thống đường ống, ống dẫ...
Tắc mạch hóa chất (còn được gọi là tắc mạch hóa học) là quá trình sử dụng các chất hóa học để làm tắc mạch hoặc phá vỡ tắc mạch trong hệ thống đường ống, ống dẫn hoặc cống rãnh. Theo cách này, các chất hóa học được sử dụng để làm tan tích tụ chất bẩn gây tắc mạch, giúp làm thông thoáng hệ thống dẫn chất và khắc phục tình trạng tắc mạch. Tắc mạch hóa chất thường được sử dụng trong việc xử lý tắc mạch trong hệ thống thoát nước, công nghiệp hoặc gia đình.
Tắc mạch hóa chất là phương pháp sử dụng các chất hóa học để giải quyết tình trạng tắc mạch trong các hệ thống ống dẫn, cống rãnh và đường ống. Khi một hệ thống bị tắc mạch do tích tụ chất bẩn, vật liệu cặn bã hoặc chất béo, tắc mạch hóa chất có thể được áp dụng để làm tan, phân hủy hoặc lưu hóa tích tụ này, từ đó làm cho hệ thống thông thoáng trở lại.
Quá trình tắc mạch hóa chất thường bắt đầu bằng việc chẩn đoán nguyên nhân gây tắc mạch. Các chất hóa học phù hợp sau đó được chọn dựa trên kiểu tắc mạch và chất liệu trong đường ống. Các chất hóa học thông thường được sử dụng bao gồm axit sulfuric, axit hydrochloric, kali hydroxide, kali nitrat, kali permanganat, natri hydroxide, natri hydroxide, natri hypochlorit và nước giấm.
Sau khi chất hóa học đã được chọn, tiến trình tắc mạch bắt đầu bằng cách sử dụng một lượng phù hợp chất hóa học vào hệ thống tắc mạch. Chất hóa học này sau đó tác động lên tích tụ, làm tan hoặc phân hủy chúng, từ đó làm tắc mạch trong hệ thống.
Tắc mạch hóa chất có thể được áp dụng trong nhiều ngành công nghiệp, bao gồm cả ngành thực phẩm, y tế, mỹ phẩm, xây dựng, công nghiệp hóa chất và nhiều ngành khác. Ngoài việc làm thông thoáng các hệ thống ống dẫn và đường ống, tắc mạch hóa chất cũng giúp giảm thiểu sự hư hỏng và tiết kiệm chi phí bảo trì hệ thống.
Trong quá trình tắc mạch hóa chất, các chất hóa học được sử dụng để tác động lên các tích tụ, chất bẩn hoặc chất cặn gây tắc mạch và giúp phân hủy chúng. Có một số loại chất hóa học thông thường được sử dụng trong tắc mạch hóa chất, bao gồm:
1. Axit sulfuric: Axit sulfuric có tính axit mạnh và được sử dụng để làm tan tích tụ vô cơ như muối canxi hoặc muối sắt.
2. Axit hydrochloric: Axit hydrochloric cũng là một chất axit mạnh và có thể phân hủy các chất canxi, máu hay sắt, giúp làm tan tích tụ.
3. Kali hydroxide: Kali hydroxide có tính kiềm mạnh và được sử dụng để làm tan chất béo và xà phòng, giúp giải quyết vấn đề tắc mạch do cặn bã dầu mỡ.
4. Kali nitrat: Kali nitrat có khả năng cháy hoạt động và thường được sử dụng để làm tan các cặn bã hữu cơ.
5. Kali permanganat: Kali permanganat có khả năng oxi hóa mạnh và được sử dụng để phân hủy chất hữu cơ thông qua quá trình oxi hóa.
6. Natri hydroxide: Natri hydroxide tương tự như kali hydroxide, là kiềm mạnh và được sử dụng để làm tan chất béo và xà phòng.
7. Natri hypochlorit: Natri hypochlorit có khả năng tác động oxy hóa và làm tan các chất hữu cơ và chất hữu cơ gây mùi tanh.
8. Nước giấm: Nước giấm (axit axetic) có tính axit nhẹ và thường được sử dụng để làm tan tích tụ vô cơ như muối canxi hoặc muối sắt.
Quá trình tắc mạch hóa chất thường yêu cầu sự chăm chỉ và am hiểu về tính chất và tương tác giữa các chất hóa học. Việc sử dụng chất hóa học phù hợp và kiểm soát lượng chất hóa học được thêm vào là quan trọng để đảm bảo hiệu quả và an toàn.
GIÁ TRỊ CỦA CẮT LỚP VI TÍNH TƯỚI MÁU TRONG ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ NÚT ĐỘNG MẠCH GAN HÓA CHẤT Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GANMục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán của cắt lớp vi tính tưới máu (CTP) trong đánh giá đáp ứng điều trị ung thư biểu mô tế bào gan sau nút động mạch gan hóa chất (TACE). Phương tiện và phương pháp: 15 bệnh nhân (12 nam, 3 nữ) với 20 khối ung thư biểu mô tế bào gan đã được điều trị bằng nút động mạch gan hóa chất (TACE), chụp cắt lớp vi tính (CLVT) thường quy và cắt lớp vi tính tưới máu trên máy CLVT 256 dãy kiểm tra sau điều trị và các khối u gan được kết luận còn tăng sinh mạch trên trên CLVT thường quy hoặc CTP sẽ được chụp động mạch số hóa xóa nền (DSA). Những khối u gan nghi ngờ có tăng sinh mạch trên bản đồ tưới máu động mạch gan (HABF) và phần trăm tưới máu gan động mạch (HAF) trên CTP từ đó phân tích mối tương quan giữa đặc điểm hình ảnh trên HABF, HAF và DSA. Kết quả: Trong số 15 bệnh nhân với 20 khối u gan được điều trị bằng TACE, có 13 khối u gan còn tăng sinh mạch trên CTP (65%) có chỉ số tưới máu HABF và HAF cao hơn so với nhu mô gan xung quanh có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Giá trị các chỉ số tưới máu của khối u gan còn tăng sinh mạch: HABF= 180.40 ± 62.65, HAF = 54.20 ± 12.53. Giá trị chỉ số tưới máu của nhu mô gan xung quanh: HABF = 6.01 ± 7.64 và HAF = 6.32 ± 9.92. Khối u gan còn tăng sinh mạch có điểm cắt HABF = 93.42 có độ nhạy 91.7%, độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương tính 100%, giá trị tiên đoán âm tính 80% và điểm cắt HAF là 41.7 có độ nhạy 83.3%, độ đặc hiệu 87.5%, giá trị tiên đoán dương tính 100%, giá trị tiên đoán âm tính 66.67%. Kết luận: CLVT tưới máu có giá trị trong việc đánh giá đáp ứng điều trị khối u gan sau nút động mạch hóa chất với việc thể hiện khối u gan còn tăng sinh mạch.
#ung thư biểu mô tế bào gan #nút động mạch gan hóa chất (TACE) #HABF #HAF
Thiếu hụt 25-OH-vitamin D xác định phản ứng khối u kém ở bệnh nhân ung thư tế bào gan được điều trị bằng hóa chất tắc mạch Dịch bởi AI Clinical and Translational Oncology - Tập 22 - Trang 70-80 - 2019
Vitamin D có liên quan đến ung thư gan và các bệnh gan mãn tính, nhưng mối liên hệ của nó với phản ứng khối u ở bệnh nhân ung thư tế bào gan (HCC) đang được điều trị bằng hóa chất tắc mạch (TACE) vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này nhằm xác định liệu mức vitamin D có ảnh hưởng đến phản ứng khối u ở bệnh nhân HCC được điều trị bằng TACE hay không. Tổng cộng có 58 bệnh nhân HCC đang được điều trị TACE đã tham gia nghiên cứu. Mức 25-hydroxyvitamin D (25-OHD) trong huyết thanh được xác định tại thời điểm bắt đầu và 1 ngày sau khi TACE bằng phương pháp hóa phát quang điện hóa. Phản ứng đối với TACE được đánh giá sau khoảng thời gian 4–6 tuần. Phân tích đơn biến và đa biến với mô hình hồi quy Cox được thực hiện để xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến phản ứng khối u. Phân tích đường cong ROC được thực hiện để đánh giá khả năng dự đoán của mức 25-OHD ban đầu đối với phản ứng khối u ở bệnh nhân HCC đang được TACE. 43.1% bệnh nhân HCC cho thấy tình trạng thiếu 25-OHD. Mức 25-OHD ban đầu có mối liên hệ với xơ gan (P = 0.025), xâm lấn mạch máu (P = 0.031), giai đoạn Ung thư Gan Barcelona (P = 0.002) và sự gia tăng aminotransferase alanine sau TACE (P = 0.021). Mức 25-OHD trong huyết thanh đã giảm một cách đáng kể 1 ngày sau TACE (P = 0.045). Số lượng khối u nhiều (P = 0.034) và mức 25-OHD ban đầu thấp (P = 0.040) có tương quan độc lập với phản ứng khối u kém sau TACE. Phân tích đường cong ROC cho thấy rằng mức 25-OHD ban đầu có khả năng dự đoán tốt hơn cho OR ở những bệnh nhân đó, so với các chỉ số thử nghiệm lâm sàng hiện tại khác. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thiếu hụt 25-OHD ban đầu là một chỉ số tiên lượng cho phản ứng khối u kém ở ung thư tế bào gan được điều trị bằng TACE.
#Vitamin D #ung thư tế bào gan #hóa chất tắc mạch #25-hydroxyvitamin D #phản ứng khối u
Kết hợp hóa tắc mạch bằng hóa chất và đốt bằng vi sóng cải thiện kiểm soát khối u tại chỗ đối với ung thư biểu mô tế bào gan kích thước 3- 5 cm khi so sánh với hóa tắc mạch bằng hóa chất đơn thuần. Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 43 - Trang 2497-2504 - 2018
Để so sánh hóa tắc mạch bằng hóa chất (TACE) đơn thuần với kết hợp TACE và đốt bằng vi sóng (MWA) về kiểm soát tại chỗ đối với ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) kích thước từ 3 đến 5 cm. Các bệnh nhân mắc HCC có kích thước từ 3 đến 5 cm được điều trị bằng TACE đơn thuần hoặc kết hợp TACE + MWA tại một cơ sở y tế duy nhất giữa năm 2007 và 2016 đã được xem xét hồi cứu. Hai mươi bốn khối u HCC (đường kính trung vị 3.8 cm) ở 16 bệnh nhân (13 nam; độ tuổi trung vị 64 năm) đã được điều trị bằng TACE đơn thuần. Kết hợp TACE + MWA được sử dụng để điều trị 23 khối u HCC (đường kính trung vị 4.2 cm) ở 22 bệnh nhân (18 nam; độ tuổi trung vị 61 năm). Đốt bằng vi sóng được thực hiện vào thời điểm mục tiêu là hai tuần sau khi TACE. Các khối u riêng lẻ được theo dõi bằng CT hoặc MR tăng cường tương phản liên tiếp. Phản ứng điều trị được đánh giá trên cơ sở từng khối u sử dụng tiêu chí mRECIST với kết quả chính là tiến triển khối u tại chỗ (LTP). Dữ liệu được phân tích bằng kiểm định chính xác Fisher cho các biến phân loại và kiểm định Wilcoxon cho các biến liên tục. Thời gian đến LTP được ước tính bằng phương pháp Kaplan–Meier. So với TACE đơn thuần, TACE + MWA cho thấy xu hướng có tỷ lệ LTP thấp hơn (34.8% so với 62.5%, p = 0.11) và tỷ lệ phản ứng hoàn toàn cao hơn (65.2% so với 37.5%; p = 0.12). Thời gian đến LTP (22.3 tháng so với 4.2 tháng; p = 0.001) dài hơn đáng kể ở nhóm TACE + MWA so với TACE đơn thuần. Phương pháp điều trị kết hợp giữa TACE và đốt bằng vi sóng cải thiện kiểm soát tại chỗ và tăng thời gian đến LTP đối với HCC kích thước 3–5 cm.
#hóa tắc mạch bằng hóa chất #đốt bằng vi sóng #ung thư biểu mô tế bào gan #kiểm soát khối u tại chỗ #tiến triển khối u tại chỗ
Hóa chất dự phòng thuyên tắc tĩnh mạch sau phẫu thuật nền sọ Dịch bởi AI Acta Neurochirurgica - - 2024
Không có hướng dẫn cụ thể nào về việc dự phòng thuyên tắc tĩnh mạch (VTE) sau phẫu thuật bằng các tác nhân hóa học (dự phòng hóa chất) cho bệnh nhân trải qua phẫu thuật nền sọ. Mục tiêu của nghiên cứu này là so sánh tỷ lệ VTE và tụ máu nội sọ sau phẫu thuật nền sọ ở bệnh nhân được điều trị với/không có dự phòng hóa chất. Nghiên cứu đã xem xét cơ sở dữ liệu của một trung tâm quaternary bao gồm những người trưởng thành trải qua phẫu thuật nền sọ lần đầu (2009–2020). VTE được định nghĩa là huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) và thuyên tắc phổi (PE) trong vòng 6 tháng sau phẫu thuật. Phân tích hồi quy logistic đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố dự đoán tụ máu nội sọ/VTE sau phẫu thuật. Sử dụng ghép đồng khả năng (PSM) trong các so sánh nhóm. Có 1551 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu với độ tuổi trung bình là 52 tuổi (khoảng 16–89 tuổi) và tỷ lệ nữ cao (62%). Dự phòng hóa chất sau phẫu thuật được sử dụng ở 81% bệnh nhân vào ngày thứ nhất sau phẫu thuật. Đã có 12 sự kiện VTE (1.2%), và việc sử dụng dự phòng hóa chất không hoàn toàn loại bỏ nguy cơ VTE (p > 0.99) và cao nhất vào/ngày thứ 6 sau phẫu thuật (9/12 sự kiện VTE). Có 18 tụ máu nội sọ (0.8%), và sau PSM, dự phòng hóa chất không làm tăng đáng kể nguy cơ tụ máu nội sọ (p > 0.99). Bệnh nhân được cho dùng dự phòng hóa chất từ ngày thứ 1 và thứ 2 sau phẫu thuật có tỷ lệ tụ máu nội sọ (p = 0.60) và VTE (p = 0.60) tương tự, điều này cũng được khẳng định qua PSM. Dự phòng hóa chất sau phẫu thuật là một chiến lược tương đối an toàn cho bệnh nhân trải qua phẫu thuật nền sọ. Chúng tôi khuyến khích áp dụng cách tiếp cận cá nhân hóa đối với dự phòng hóa chất và khuyến nghị thực hiện vào ngày thứ 1 hoặc thứ 2 sau phẫu thuật khi cần thiết.
#thuyên tắc tĩnh mạch #dự phòng hóa chất #phẫu thuật nền sọ #tụ máu nội sọ
Đánh giá kết quả bước đầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hoá chất sử dụng hạt vi cầu DC-Beads tại Bệnh viện Quân y 105Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads tại Bệnh viện Quân y 105. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, can thiệp không đối chứng, theo dõi dọc 30 bệnh chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan có chỉ định tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads (Bicompatibles UK Ltd- Boston Scientific) hàm lượng doxorubicin 75mg/lần can thiệp tại Bệnh viện Quân y 105. Đánh giá đáp ứng khối u tại thời điểm 1 - 3 tháng và 4 - 6 tháng. Kết quả: 30 bệnh nhân nghiên cứu với độ tuổi > 60 tuổi (80%) tỉ lệ nam giới (93,33%); có yếu tố nguy cơ cao là nhiễm viêm gan virus B (83,33%). Thực hiện tổng cộng 62 lần can thiệp cho 30 BN, trung bình 2,07 lần cho một BN. Hội chứng sau tắc mạch (PES) thường gặp nhưng đa số đều nhẹ. Có 1 bệnh nhân biến chứng suy gan cấp (3,33%). Tỷ lệ giảm AFP sau 3 tháng chiếm 60%. Kích thước u trung bình tại các thời điểm 1 - 3 tháng và 4 - 6 tháng giảm có ý nghĩa so với trước điều trị. Các kết quả về tái phát, di căn và tử vong trong 6 tháng chiếm tỷ lệ 30%, 10%, 3,33%. Có 01 bệnh nhân tử vong trong 6 tháng vì nguyên nhân chảy máu tiêu hoá. Kết luận: Phương pháp tắc mạch hoá chất tải hạt vi cầu DC-Bead tại Bệnh viện Quân y 105 an toàn và hiệu quả cao cần tiếp tục thực hiện và nghiên cứu xa để đánh giá hiệu quả lâu dài.
#Tắc mạch hoá chất sử dụng hạt vi cầu #ung thư biểu mô tế bào gan
Tác dụng không mong muốn và biến chứng của kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chấtMục tiêu: Đánh giá độ an toàn của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, có đối chứng trên 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân (Nhóm I) và 38 bệnh nhân điều trị bằng hóa tắc mạch hạt vi cầu DC Bead (Nhóm II). Đánh giá biến chứng sau SBRT theo CTCAE V5.0. Kết quả: Tác dụng phụ sớm ở bệnh nhân nhóm I chủ yếu là mệt mỏi (23,8%), nhóm II chủ yếu thấy đau vùng gan (47,4%), khác biệt có ý nghĩa, p<0,05. Biến chứng sớm ở nhóm I là viêm gan đợt cấp (4,8%), viêm da (4,8%) khác biệt không có ý nghĩa so với nhóm II (0%), p>0,05. Biến chứng lâu dài ở nhóm I: Viêm gan đợt cấp (2,4%), tràn dịch màng phổi (7,1%), viêm da (2,4%) không có sự khác biệt có ý nghĩa so với nhóm II: Viêm gan cấp (0%), tràn dịch màng phổi (2,6%), viêm da (0%), p>0,05. Không có tử vong liên quan đến kỹ thuật can thiệp ở cả 2 nhóm. Kết luận: SBRT là phương pháp điều trị an toàn, không có biến chứng nặng cho bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #biến chứng
21. Giá trị tiên lượng thời gian sống thêm của thang điểm abcr ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng phương pháp nút mạch hóa chất tại Bệnh viện Đại học Y Hà NộiKhoảng 60% ung thư biểu mô tế bào gan phát hiện ở giai đoạn trung gian theo Barcelona, với liệu pháp điều trị chủ yếu là nút mạch hoá chất qua đường động mạch (TACE). Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân đạt hiệu quả như nhau khi điều trị TACE. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: Đánh giá về giá trị của thang điểm ABCR trong tiên lượng thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trung gian được điều trị bằng nút mạch hóa chất. Nghiên cứu 85 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trung gian điều trị bằng phương pháp TACE tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 6/2021 đến tháng 1/2024. Tuổi trung bình là 59,7 ± 10,9 tuổi. Nam giới chiếm 85,9%. 72,9% bệnh nhân mắc viêm gan B. Thời gian sống thêm trung bình sau TACE là 33,5 tháng. Giá trị dự đoán tiên lượng tử vong của thang điểm ABCR có diện tích dưới đường cong là 0,67. Nhóm phân loại ABCR nguy cơ thấp có thời gian sống thêm trung bình là 36,6 tháng với 95% CI là 33,6 - 39,6 cao hơn nhóm phân loại ABCR nguy cơ trung bình và ACBR nguy cơ cao (33,4 tháng và 14,7 tháng) với p = 0,07.
#Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) #nút mạch hoá chất qua đường động mạch (TACE) #Thang điểm ABCR #Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
GIẢI PHẪU HỆ THỐNG ĐỘNG MẠCH GAN TRÊN HÌNH ẢNH CHỤP MẠCH SỐ HÓA XÓA NỀN ỨNG DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN BẰNG NÚT HÓA CHẤT ĐỘNG MẠCH QUA CATHTERTÓM TẮTUng thư biểu mô tế bào gan (HCC) là loại ung thư hay gặp nhất trong các khối u ác tính của gan. Đây một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người trưởng thành, xếp thứ 5 ở nam giới và xếp thứ 8 ở nữ giới trong số các ung thư nguyên phát. Tỉ lệ mắc HCC cao nhất được thấy ở châu Phi khu vực cận Sahara, Đông Á, Đông Nam Á. Tính chung trên toàn thế giới, tại các nước đang phát triển, tỉ lệ mắc trong 100.000 dân đối với nam giới là 17,43 và đối với nữ giới là 6,77. Tại các nước phát triển, tỉ lệ này tương ứng là 8,71 và 2,86 [2],[6]. Mặc dù đã có nhiều phương pháp điều trị HCC đã được biết đến trong y văn thế giới nhưng hiện nay nút hóa chất động mạch qua catheter (TACE) vẫn là phương pháp hiệu quả nhất đối với HCC giai đoạn tiến triển (không thể phẫu thuật). Ngay cảvới những trường hợp còn chỉ định phẫu thuật thì TACE vẫn đóng vai trò quan trọng trong khi chờ được phẫu thuật. Hiệu quả của TACE phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếp cận các nguồn ĐM cấp máu cho khối u cũng như tránh được các ĐM mạch cấp máu cho tổ chức, cơ quan bình thường. Do vậy, việc nhận định được các hình thái giải phẫu, biến thể giải phẫu cũng như đặc điểm huyết động học của hệ thống ĐM gan trên chụp mạch số hóa xóa nền (DSA)là điều rất quan trọng trong nâng cao hiệu quả điều trị, tránh được những biến chứng của TACE.